Thành tựu nghệ thuật Lê Đại

Thơ văn Lê Đại, phần lớn là thơ cảm tác, đề vịnh, tiễn tặng. Trừ một ít bài chữ Hán, số còn lại đều là tiếng Việt, và bao gồm đủ các thể loại.

Nhận xét thơ ông, GS.Nguyễn Huệ Chi có ý kiến như sau:

Dưới bất kỳ hình thức nào, thơ Lê Đại đều nhằm phơi bày hình ảnh con người yêu nước của thế hệ mình, từ nhân cách, khí tiết đến cảnh ngộ trớ trêu mà họ phải chịu đựng. Đấy là con người biết gắn mình với một lẽ sống cao đẹp, không ngả nghiêng khi lâm vào thất bại, và biết dùng tiếng cười để ứng phó với mọi tình thế khó khăn (Mới vào ngục khẩu chiếm, Trong ngục Hỏa lò Hà Nội cảm tác, Cảnh Hỏa Lò, Mới ra đảo, Ở đảo Côn Lôn cảm tác...)Mặt khác, trong cách sống, họ thuộc lớp nhà Nho lỡ vận, trọng đạo nghĩa nhưng ít nhiều cũng đã biết thức thời, khoan dung với cái "mới" chứ không quá câu nệ (Tân gia nữ huấn ca). Và trong quan hệ, đó là con người biết gắn bó, thủy chung và sẻ chia (Tiễn hai cụ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng từ Côn Đảo ra về, Tặng cụ Phan Bội Châu nhân vào Huế thăm cụ tại Bến Ngự...)Bên cạnh, thơ Lê Đại còn là tiếng nói riêng của một cá tính hiền lành mà bướng bỉnh, không khuất phục và rất biết tự cười nhạo mình (Tự trào lão xứ Lê, Năm mươi tám tuổi tự trào...)Về phong cách thơ ông độc đáo ở khả năng chọn từ vừa bình dị, vừa mới mẻ; ở khả năng phối hợp khăng khích giữa âm hưởng bài thơ và cảm xúc trữ tình, nên gây được ấn tượng mạnh cho người đọc...[4]

Nhìn chung, Lê Đại là một trong những người "giỏi quốc văn, những tay bút lưu loát, hùng hồn, chan chứa nhiệt tình cách mạng" (GS. Đặng Thai Mai)[5].